SỰ BÀNH TRƯỚNG CỦA TRUNG HOA

Montreal Viet News xin giới thiệu tác phẩm nghiên cứu của ông C.P Fitgerald. Cố giáo sư , nhà sử học về Đông Á và đặc biệt Trung Quốc. Được dịch và chú giải bởi Ngô Bắc, bút hiệu của ông Ngô Ngọc Trung, chuyên gia nghiên cứu Văn Khố Đông Dương (Indochina Archives), của viện Institute For East Asian Studies, UC Berkeley về Việt Nam với rất nhiều công trình nghiêu cứu quan trọng, trong đó có Bách Khoa Tự Điển Encyclopedia of the Vietnam War, A Political, Social, And Military History,

C.P. FITZGERALD

 SỰ BÀNH TRƯỚNG CỦA TRUNG HOA

TRÊN ĐẤT LIỀN: TRƯỜNG HỢP VIỆT NAM

Ngô Bắc dịch và phụ chú

Phần 1

Việt Nam là xứ sở mở rộng cửa nhất cho sự bành trướng và chiếm đóng trên đất liền bởi người Trung Hoa.  Biên cương, mặc dù chạy dọc theo một rặng núi, lại cung cấp nhiều hơn một cửa ải khả dĩ tiếp cận đuợc, và bờ biển chỉ là một sự nối dài của bờ biển thuộc tỉnh Quảng Đông, miền nam nước Trung Hoa.  Châu thổ sông Hồng, trung tâm của Bắc Việt, cũng là đồng bằng phì nhiêu to lớn nhất và tốt nhất ở phía nam cửa sông Dương Tử.  Mọi tình huống xem ra đã phán định rằng xứ sở lân cận này sẽ trở nên, và tồn tại, như một phần của thế giới Trung Hoa, và một phần liên hợp của quốc gia Trung Hoa.  Trong nhiều thế kỷ điều này được xem như sẽ là số phận của nó, và đã là một chuyện có thực.  Việt Nam đã là một tỉnh của Trung Hoa từ năm 111 trước Công Nguyên cho đến năm 939, trong hơn một nghìn năm.  Trong nghìn năm kế tiếp, từ năm 939 cho đến ngày nay, người Việt Nam, đã dành đạt được nền độc lập của họ, đã có thể duy trì sự tự chủ này với các sự gián đoạn ngắn ngủi – một cuộc tái chinh phục của Trung Hoa từ 1407 đến 1427, và sự cai trị của Pháp từ cuối thế kỷ thứ mười chin cho đến năm 1946.  Các nguyên do tại sao một diễn tiến lịch sử hiển nhiên đã bị đảo ngược đáng được khảo sát một cách kỹ lưỡng, bởi chúng soi sáng vào bản chất thực sự của sự tiếp xúc và bành trướng của Trung Hoa vào vùng đất biên cương phía nam.

 

Trước tiên cần phải nhận định rằng phần của Việt Nam trước đây lệ thuộc sự cai trị của Trung hoa chỉ vào khoảng một phần ba xứ sở hiện nay, đồng bằng châu thổ sông Hồng và bình nguyên duyên hải chạy dọc theo bờ biển của vịnh Bắc Việt [hay vịnh Đông Kinh: Gulf of Tongking trong nguyên bản, chú của người dịch].  Phần giờ đây là Trung Việt, và trước ngày độc lập được gọi bởi chính quyền thực dân Pháp như xứ bảo hộ An Nam, chưa có một thời kỳ lâu dài nào nằm dưới sự cai trị của Trung Hoa, và khi đó là phần đất phía bắc của vương quốc Chàm.  Miền nam Việt Nam đã là một phần của lãnh thổ Chàm, và xa hơn về phía nam, là đất của Căm Bốt.  Các tên gọi ngày nay phần lớn phát sinh từ thuật ngữ được dùng dưới chế độ Pháp và không tương ứng hoặc là với các danh xưng trong tiếng Việt hay gần sát với các khu vực lịch sử.  “Đông-Kinh: Tongking” là cách gọi của người Pháp, rút ra từ danh xưng một cố đô, ngày nay là thành phố Hà Nôi, được biết trong cách nói thông dụng là Tong King: Đông Kinh (Hoa ngữ viết là Tung Ching), có nghĩa Kinh Đô Phía Đông.  An Nam, từ Hoa ngữ là An Nan, là một danh xưng được đặt cho miền bắc dưới sự cai trị của Trung Hoa thời nhà Đường, và có nghĩa “Phía Nam đã được bình định: Pacified Sooth.”  Cochinchina, được dùng để chỉ phía nam của phần ngày nay là Nam Việt Nam, là một từ ngữ do ngoại quốc đặt ra, có lẽ là có nguồn gốc từ ngôn ngữ Bồ Đào Nha.  Nó không phải là tiếng Việt.  Chính danh xưng “Việt Nam” là cách phát âm theo tiếng Việt các từ ngữ Trung Hoa Yueh Nan có nghĩa “Việt phương nam: Yeuh South,” đất Việt phía nam, đê” phân biệt nó với các vương quốc và khu vực Việt khác nằm dọc theo bở biển phía đông nam của Trung Hoa.  Những phần đất này đã được bao gồm trong thời cổ vào nước Việt (Yueh Quốc) nay thuộc tỉnh Triết Giang, nằm sát phía nam của châu thổ song Dương Tử; Mân Việt (Min Yueh), nay là tỉnh Phúc Kiến, và Nam Việt (Nan Yueh hay Việt phương Nam), bao gồm tỉnh Quảng Đông và một phần tỉnh Quảng Tây với vùng châu thổ sông Hồng thuộc Bắc Việt ngày nay.  Khu vực sau cùng này, là phần cực nam của Nam Việt, được goi là Việt Nam (Yueh Nan), “Việt phương Nam.”

 

Dân Việt chính vì thế từ thủa xa xưa đã dàn trải sâu rộng, dọc theo bờ biển phía đông của Á Châu, và có thể một trong những nhánh của họ đã là một thành phần cấu thành dân Nhật Bản sau này.  Sự chinh phục của Trung Hoa, từ thế kỷ thứ ba trước Công Nguyên trở về sau này, đã dần dà thu hút dân Việt phương bắc, cho tới năm 111 trước Công Nguyên, Hán Vũ Đế đã chính phục vương quốc Nam Việt (Nan Yueh) to lớn ở phía nam, và từ đó, chiếm giữ vùng châu thổ sông Hồng.  Trước đó, Tần Thủy Hoàng Đế , kẻ thống nhất nước Trung Hoa, đã tấn công Nam Việt và cưỡng bách Nam Việt nhìn nhận quyền chủ tể của ông ta.  Nhưng vào lúc có sự sụp đổ của đế quốc nhà Tần ngắn ngủi trong năm 203, Nam Việt đã khôi phục nền độc lập của mình cho đến khi sau rốt bị chinh phục bởi Hán Vũ Đế một thế kỷ sau đó.  Ngay từ trong thời tiếp xúc đầu tiên này, một sự kiện đã xuất hiện: khi Trung Hoa ở dưới một chế độ cai trị thống nhất và hùng mạnh, sự độc lập của bất kỳ phần đất nào trong lãnh thổ nước Việt cũ sẽ bị nguy hiểm, hay mất đi.  Khi Trung Hoa bị chia trí bởi các khó khăn nội bộ, người Việt đã khôi phục sự độc lập, và duy trì nó cho đến khi lại bị chinh phục một lần nữa bởi vũ lực.  Không giống như các tỉnh nội vi của Trung Hoa, vùng đất Việt đã chiến đấu chống lại sự sáp nhập vào các đế quốc mới và không sẵn lòng khuất phục trước quyền lực trung ương mới, như các tỉnh của Trung Hoa vẫn thường làm.

 

Là một dân tộc đi biển, người Việt cổ xưa luôn luôn tạo dựng các khu định cư của họ trên các mảnh đất phì nhiêu nơi các châu thổ và cửa sông mang lại các khu vực khả dĩ canh tác duy nhất tại các tỉnh đồi núi phía đông nam sát biển của Trung Hoa.  Chính vì thế, vương quốc Việt đầu tiên đã tập trung tại cửa sông Tiền Đường, quanh vịnh Hàng Châu trong tỉnh Triết Giang ngày nay; Mân Việt, tại Phúc Kiến, đặt nền móng trên vùng đất phì nhiêu ở cửa sông Mân, tại Phúc Châu; Nam Việt chiếm cứ châu thổ sông Tây Giang, tại Quảng Đông, và sau đó tràn xuống phía nam để sáp nhập và định cư tại châu thổ sông Hồng, miền Bắc Việt Nam ngày nay.  Bốn vùng cửa sông và châu thổ này là phần đất canh tác tốt nhất  và là các khu vực rộng lớn nhất thích hợp với việc trồng lúa tại bờ biển đông nam.  Đồng bằng thứ năm, châu thổ sông Cửu Long, sau hết sẽ là khu định cư to lớn cuối cùng của dân Việt, và tạo thành vùng đất trọng tâm ngày nay của Nam Việt Nam.  Các vùng đất phì nhiêu có nghĩa có sự định cư mau lẹ và tương đối đông đúc: trong khi nam tiến tại nội địa Trung Hoa, các di dân Trung Hoa phương bắc chỉ tìm thấy một dân số nhỏ dọc theo các thung lũng khá chật hẹp của các phụ lưu sông Dương Tử, một dân số dễ dàng bị nuốt chửng hơn bởi các di dân, dọc theo bờ biển, họ gặp phải các khu định cư của dân Việt đông đảo và chiếm giữ các phần đất cô đọng có khả năng cho một sự kháng cự có tổ chức.  Nước Việt cổ thời tại Triết Giang hầu như tự mình hủy diệt, và làm dân tộc của mình yếu đi bởi các cuộc xâm lăng không ngừng vào các nước láng giềng, cho đến khi dân số của nó thực sự bị tiêu hao đi.  Hán Vũ Đế đã áp dụng thủ đoạn di chuyển cưỡng bách trên quy mô rất lớn sô dân bị chinh phục khi ông ta chiếm cứ Mân Việt tại Phúc Kiến, cho họ tái định cư tại miền trung Trung Hoa.  Nam Việt, tại Quảng Đông, quê hương của “các người nói tiếng Quảng Đông” duy trì cho đến ngày nay tính chất khác biệt và thái độ không nguôi ngoai đối với sự cai trị của phương bắc, lúc nào cũng tạo thành một vùng gây nhiều khó khăn cho chính quyền trung ương tại Trung Hoa, bất kể đến hình thức hay tính chất nào đi nữa.

 

Tiếng Quảng Đông, và cũng như thổ ngữ của Phúc Châu (Hokkiu) hay các thổ ngữ khác dọc duyên hải đông nam thì khác biệt một cách rõ rệt với lối nói Trung Hoa tiêu chuẩn ở bất kỳ biến thể nào tìm thấy trong Hoa ngữ.  Một phần, sự khác biệt này tượng trưng cho các hình thức cổ xưa hơn của Hoa ngữ tiêu chuẩn, được áp đặt trên một sắc dân không nói tiếng Trung Hoa trong quá khứ, và như thường xảy ra, giữ lại trong các tình huống này một đặc tính nguyên thủy mà mạch chính của ngôn ngữ đã để lại phía sau.  Điều có thể nhận thấy là tiếng Quảng Đông ngày nay gần gụi với ngôn ngữ nói Trung Hoa tiêu chuẩn của thời nhà Đường (thế kỷ 7 đến 10, sau Công Nguyên) là thời kỳ trong đó có xảy ra cuộc nhập cư lớn lao của người Trung Hoa phương bắc đến Quảng Đông.  Thổ ngữ Phúc Châu được nghĩ là gần với tiếng nói tiêu chuẩn của thời nhà Hán, khi theo sau chính sách di cư của Hán Vũ Đế, nhiều người Trung Hoa phương bắc đã di chuyển vào khu vực sông Mân.  Người ta có thể so sánh với  âm sắc Anh ngữ thế kỷ thứ mười tám như được phát ngôn bởi dân da đen tại vùng West Indies, các sự khác biệt chỉ là thời khoảng trải qua dài hơn nhiều đối với các khu định cư của người Trung Hoa tại miền đông nam.  Nằm dưới đặc thù ngữ học này là yếu tố chủng tộc; thành phần chính của dân chúng tại Quảng Đông, và cũng như ở Phúc Kiến, là một chủng tộc nguyên thủy không phải là người Trung Hoa, mà phần lớn là người Việt.  Ngay trong các biên cương của đế quốc như được ấn định trên các ranh giới tồn tại lâu dài bởi Hán Vũ Đế hồi cuối thế kỷ thứ nhì trược Công Nguyên, sự xâm nhập của Trung Hoa phần rất lớn chỉ là sự áp đặt một nền văn hóa và một văn minh đã phát tirển hơn trên người dân không phải là Trung Hoa.

 

Chính sự kiện này đã giúp giải thích đặc điểm và cá tính cách biệt liên tục của người Việt Nam.  Việt Nam, và từ ngữ này khi đó chỉ có nghĩa chỉ vùng châu thổ sông Hồng, là giới hạn cùng cực của đế quốc Trung Hoa, “Việt ở phương Nam: Yueh South”, nơi mà sự cai trị của Trung Hoa không có nghĩa là sự nhập cư của người Trung Hoa từ phương bắc, mà mang ý nghĩa một chính quyền của ngoại nhân gồm các quan chức Trung Hoa từ phương bắc.  Đã sẵn có hàng nghìn nông dân canh tác trên đất đai, và cung cấp khỏan thuế thâu cho chính quyền Trung Hoa.  Không có nhu cầu phải mang các số lượng lớn các nông dân di cư Trung Hoa, và đã có đầy đất đai gần nơi ở của các nông dân như thế hơn, đang chờ đợi để được định cư tại thung lũng sông Dương Tử và các phụ lưu của nó.  Người Trung Hoa tìm thấy nơi dân Việt một dân tộc gồm các nông dân trồng lúa gao, giống như các nông dân của chính Trung Hoa; tương đối cũng dễ dàng áp đặt sự cai trị của Trung Hoa trên họ, và sau đó thiết lập các định chế tương tự trong hầu hết các khía cạnh như các định chế của Trung Hoa.  Điều này đã xảy ra; văn hóa Việt Nam mang đậm màu sắc Trung Hoa, nhưng đặc tính chủng tộc của người dân vẫn tiếp tục là “Yueh”, tức là “Việt”, và họ đã kế thừa và ấp ủ ý thức về sự khác biệt chủng tộc đó cùng khát khao một quốc gia riêng biệt trong đó một hình thức biến cải đã luôn luôn biểu thị đặc tính cho các người anh em bị đồng hóa hơn của họ, các người nói tiếng Quảng Đông.

Xin xem Tiếp phần 2