Phần 5: Sự Bành trướng của Trung Hoa

Trong năm 1858, Đô Đốc Rigault de Genouilly lại tấn công Đà Nẵng lần nữa, và trong năm kế tiếp chiếm giữ Sàigòn.  Từ biến cố đó đã khởi sự một chuỗi các sự xâm lấn và sáp nhập mang vài nét tương đồng với sự nghiệp của Pigneau de behaine và chính vua Gia Long trong cuộc chiến của họ chống lại quân Tây Sơn mới sáu mươi ông.  Năm 1864 sứ giả Pháp tại chỗ đã bị khuyến dụ để đồng ý một sự hoàn trả các năm trước đó.  Sàigòn trên nên căn cứ địa; khu vực chinh phục được mở rộng chung quanh nó, và các vùng nội địa bị cắt rời khỏi quyền cai trị của chính quyền ở Huế.  Năm 1862, miền đông của phần được gọi là Nam Kỳ, Sàigòn, Mỹ Tho và Biên Hòa, đã bị nhường cho Pháp bởi Hoàng Đế Tự Đức, người e sợ các sự xâm chiếm hơn nữa nếu ông kháng cự, và các hậu quả của chúng trên sự ổn định nội bộ của chế độ của khu vực này, và đã ký kết một văn kiện như thế.  Hành vi của ông ta bị bác bỏ tại Paris, nơi mà một cuộc vận động chính trị của phe thực dân nhiều quyền thế đang thành hình.  Ba năm sau đó, 1867 thống đốc Pháp tại Sàigòn với đề xuất của mình đã xâm lăng và chiếm đóng, sau đó, sáp nhập phần còn lại của vung châu thổ của Nam Việt Nam đến tận biến giới Căm Bốt.  Cùng lúc một chế độ bảo hộ đã được áp đặt lên trên vương quốc yếu kém Căm Bốt, xứ trong thực tế gần như chào đón sự bảo hộ này, thoát ra khỏi các cuộc xâm lăng của Việt Nam và Thái Lan.

 

Điều có thể nhận thấy rằng các sự tiến bước quan trọng này của người Pháp đã diễn ra đồng thời với sự suy giảm của quyền lực chính trị của Trung Hoa bởi trước tiên cuộc nổi dậy của Thái Bình Thiên Quốc trong thập niên 50 và những năm đầu của thập niên 60 của thế kỷ và sau đó bởi Cuộc Chiến Tranh Anh – Pháp chống lại Trung Hoa từ 1858 đến 1860, đã áp đặt các hạn chế mới và rộng rãi hơn trên đế quốc đang suy yếu này.  Vua Tự Đức không thể hy vọng sự trợ giúp của Trung Hoa trong thời kỳ khó klhăn này.  Mặt khác, thảm họa chủa chính nước Pháp trong năm 1870 [thất trận trước Đức, chú của người dịch] chỉ đòi hỏi một sự đình chỉ rất tạm thời tiến trình chinh phục và thống trị tại Việt Nam.  Vào năm 1873 chính quyền tại Sàigòn đã đủ mạnh để loại bỏ mọi tàn tích của chính quyền Việt Nam và mang lại chế độ cai trị thực dân trực tiếp của người Pháp.  Các viên chức (“các quan lại”) của Tự Đức đã từ chối hợp tác, và trong nhiều trường hợp, đã rút lui khỏi khu vực; vì thế người Pháp tuyên bố rằng sự kiện này đã tạo ra một khoảng trống chính quyền mà họ phải tự đảm nhận việc lấp đầy.  Họ đã làm; thuế khóa đã tăng gấp mười lần trong hai mươi năm kế đó.  Kỷ nguyên bóc lột của thực dân đã khởi đầu.

 

Trong cùng năm, 1873, người Pháp lần đầu tiên đã tiến hành chống lại miền bắc Việt Nam, nơi mà một sĩ quan hành động gần như độc lập với chính phủ quê nhà, nhưng không phải là không có sự hậu thuẫn chính trị tại Pháp, đã chiếm đóng Hà Nội.  Anh ta đã bị hạ sát ở đó trong năm sau, và người Pháp đã di tản khỏi thành phố để đổi lấy một hiệp ước mới được ký kết bởi vua Tự Đức chấp thuận mậu dịch mở ngỏ và sư lưu hành tự do trên sông Hồng.  Trong khi đó tại Trung Hoa đã có điều mà các sử gia Trung Hoa mệnh danh là Cuộc Phục Hồi vua Đồng Trị (Phục Hưng là một danh từ đúng hơn) theo sau sự trấn áp cuộc nổi dậy của Thái Bình Thiên Quốc năm 1862 và sự trấn áp kế tiếp các cuộc nổi loạn nhỏ hơn của người Niệm (Nien Fei) tại miền trung Trung Hoa và của người Hồi Giáo tại các tỉnh phía tây và tại Vân Nam.  Triều đình một lần nữa đã nắm được sự kiểm soát tình hình, và các phó vương kinh lược phục hồi chế độ đã thực hiện các nỗ lực thận trọng để hiện đại hóa quân đội và thiết lập ở mức tối thiểu công nghiệp tân tiến, chính yếu cho các sự trang bị vũ khí.  Vua Tự Đức bị khuyến dụ để tin rằng Trung Hoa có thể, sau hết, một lần nữa đưa ra một đối lực trước các sự xâm lược của Pháp.  Trong năm 1880, ông đã phái đi một sứ bộ triều cống, không phải chỉ đến biên giới, như tập quán lâu nay, mà còn đến tận Bắc Kinh.  Điều này hiển nhiên là một sự biểu lộ về mặt chính trị lòng tin tưởng nơi Trung Hoa và một sự thỉnh cầu gián tiếp cho sự bảo hộ của Trung Hoa.  Sự việc này làm tức giận phe thực dân chủ nghĩa của Pháp.

 

Trong vòng hai năm người Pháp, tố cáo chính quyền Việt Nam đã vi phạm Hiệp Ước (một duyên cớ tiêu chuẩn cho hành động vũ lực tại khắp vùng Viễn Đông trong thời kỳ này), đã chiếm giữ Hà Nội (1882), lần này với ý định ở lại đó; và mặc dù viên chỉ huy cuộc viễn chinh, Rivière, đã bị hạ sát trong năm kế tiếp, người Pháp đã không triệt thoái.  Chiến tranh tại châu thổ Sông Hồng đã tiếp diễn trong gần hai mươi năm, người Pháp đã đụng độ với cuộc kháng chiến du kích được mô tả bởi các người đương thời bằng các từ ngữ có thể được dùng bởi người Hoa Kỳ ngày nay.  Kẻ địch vô hình, biến dạng khi có sự xuất hiện của các lực lượng hùng mạnh, nhưng tái hiện khi các lực lượng này ra đi, những kẻ không thể bị phân biệt khỏi giới nông dân trên các cánh đồng, bởi vì chính anh ta là một người trong họ.  Vua Tự Đức mất năm 1883 và các khó khăn của triều đại trong sự kế vị ông đã mở đường cho người Pháp chiếm đóng Huế và dựng lên một vị hoàng đế bù nhìn.  Một vị tuyên nhận ngôi vị khác đã chạy trốn để lãnh đạo cuộc kháng chiến du kích cho đến khi từ trần [sic, để chỉ vua Hàm Nghi, sau bị bắt và bị đày sang Phi Châu, ND].  Trong khi đó, Trung Hoa đã can thiệp, bằng cả hoạt động của quân du kích phi chính quy được gọi là quân Cờ Đen (tự họ là thối thân của các nhóm Thái Bình Thiên Quốc tỵ nạn chạy trốn vào các vùng đồi núi ở biên giới) lẫn các lực lượng chính quy.  Các lực lượng này đạt được một chiến thắng trên người Pháp tại Lạng Sơn, nhưng bộ chỉ huy của Pháp ở ngoài biển, giúp cho họ có thể pháo kích hải cảng Trung Hoa tại Phúc Châu và tấn công các khu vực duyên hải khác, cộng với các sự bận tâm của Trung Hoa tại Hàn Quốc để đối phó với Nhật Bản, khiến cho Triều Đình Trung Hoa sẵn lòng hòa giải, từ bỏ sự tuyên nhận của nó, kéo dài hàng nghìn năm, về quyền chủ tể trên Việt Nam.  Biến cố này đã chính thức chấm dứt bất kỳ loại thẩm quyền nào tại xứ sở; sự áp đặt chế độ thống trị thực dân trực tiếp của người Pháp tại Bắc Kỳ năm 1887 và quyền lực bảo hộ gia tăng trên đế quốc An Nam thu nhỏ  đặt tại Huế đã kết liễu, trong hơn năm mươi năm, nền độc lập của chính Việt Nam./-

 

—–

 

Nguồn: C.P. FitzGerald, Chapter Two: Chinese Expansion By Land: Vietnam, các trang 19-38, The Southern Expansion of Chinese People, New York, Washington: Praeger Publishers, 1972

 

***

 

 

PHỤ CHÚ CỦA NGÔ BẮC

 

Trên đây là bản dịch của một công trình nghiên cứu quan trọng, trình bày một cách xúc tích tiến trình hình thành của Việt Nam với các ý nghĩa lịch sử then chốt theo nhịp biến thiên trong tác động của áp lực bành trướng thường trực xuống phía nam của Trung Hoa.  Tác giả, C.P. FitzGerald là một giáo sư người Anh, được nhìn nhận như học giả hàng đầu và đã xuất bản nhiều tác phẩm kinh điển về văn hóa và địa lịch sử Trung Hoa trong thế kỷ thứ 20.  Với sự hiểu biết uyên bác, tác giả đã ghi lại một cái nhìn thấu triệt khi đối chiếu các sự tương tác, các điểm tương đồng và dị biệt trong văn hóa và lịch sử tư tưởng của Trung Hoa và Việt Nam, nước thụ nhận gần như trọn vẹn văn hóa mà người Trung Hoa đã áp đặt lên họ.  Bản dịch hai Chương khác trong cùng tác phẩm của tác giả có liên hệ nhiều đến Việt Nam, Sự Bành Trướng Của Trung Hoa Trên Đất Liền: Trường Hợp Vân Nam và Các Viễn Ảnh Về Sự Bành Trướng Xuống Phía Nam Của Trung Hoa, sẽ lần lượt được đăng tải nơi đây.

 

Về bản địa nguyên thủy, đặc biệt về biên giới phía bắc của chủng tộc Việt, người dịch xin ghi lại các nhận xét và khám phá mới của khoa học hiện đại, đặc biệt trong nhân chủng học, đã được công bố gần đây như sau:

 

  1. Tác giả Trần Đai Sỹ, trong bài Thử Tìm Lại Biên Giới Cổ Của Việt Nam: Bằng Cổ Sử, Bằng Triết Học Và Hệ Thống ADN(hay DNA trong Anh ngữ) (đã phổ biến và có thể truy cập dễ dàng trên mạng internet), cho rằng:

 

[bắt đầu trích] “…  Còn trong vòng 5000 năm trước Tây lịch cho đến nay, thì tộc Việt bao gồm trăm giống Việt sống rải rác từ phía nam sông Trường Giang, Đông tới biển, Tây tới Tứ Xuyên, Nam tới vịnh Thái Lan.  Người Việt từ Ngô-Việt di cư xuống phương Nam.  Người Mân Việt đi xuống Giao Chỉ.  Người Việt di cư từ nam sông Trường Giang tránh lạnh xuông Bắc Việt đều đúng.  Đó là những cuộc di cư của tộc Việt trong lãnh thổ của họ, như cuộc di cư từ bắc vào nam năm 1954; chứ không phải họ là người Trung quốc di cư xuông Nam, lập ra nước Việt.” [hết trích]

 

Tác giả cũng có trưng dẫn các di tích còn lại đến ngày nay như đền có các câu đối thờ Hai bà Trưng tại Bồ Lăng (Fuling) thuộc thành phố Trùng Khánh, tỉnh Tứ Xuyên, ở Trường sa, ở Động Đình Hồ, tỉnh Hồ Nam, Trung Hoa ngày nay,  v.v…  Chúng ta cũng còn các bài thơ của Lê Quý Đôn, Phan Huy Ích viết về các đên thờ Hai bà Trưng ở nam Trung Hoa khi các vị này biết đến trong dịp đi sứ sang Trung Hoa. Các bằng chứng này cho thấy nhiều phần địa bàn tranh đấu của Hai Bà Trưng nằm ở vùng Hoa Nam ngày nay hơn là ở vùng châu thổ sông Hồng như được lưu truyền.

 

Tác giả đã đề cập đến các cuộc nghiên cứu hệ thông DNA và đã đưa ra các kết luận như sau:

 

– (bắt đầu trích) “Theo sự nghiên cứu bằng hệ thống AND, từ cổ, giống người Trung Hoa, do giống người từ Đông Nam Á đi lên.  Những người Đông nam Á lại đến từ châu Phi qua ngả nam Á vào thời gian hơn 20,000 năm trước.

 

– Người châu Phi đến Bắc Trung Hoa do ngả Âu Châu rồi vào Trung Á, khoảng 15,000 năm.  Rồi hai giống người này tạo thành tộc Hoa.” (hết trích)

 

Rất tiếc là các kết quả nghiên cứu hệ thống DNA đã không được trinh bày giống như trong các cuộc nghiên cưu khoa học khác, vì đây là những bằng chứng khả tỉn nhất, có sức thuyết phục vũng chắc nhất.

 

  1. Tác giả W. W. Howells, trong bài Origins of the Chinese People: Interpretations of the Recent Evidence, đăng tải trong quyển The Origins of Chinese Civilizations, University of California Press: Berkeley, California & London, 1983, đã áp dụng các phương pháp nhân chủng học như đo sọ người thu thập được từ nhiều nơi trên đất Trung Hoa, để lấy số đo của chiều dài, chiều ngang và chiều cao của vòm sọ, chiều dài từ xương chẩm đên đầu mũi; chiều dài từ xương chẩm đến kẽ giữa răng cửa; chiều ngang và chiều dọc của khuôn mặt; chiều dài và chiều ngang của mũi, ổ mắt) (Xem Bảng 11.1 và 11.2 dưới đây).

 

 

Bảng 11.1: Các Số Đo Trung Bình Của Các Loạt Sọ Người Trung Hoa

 

***

 

Bảng 11.2:  Các Độ Sai Trệch Tiêu Chuẩn của Chuỗi Số Đo Sọ Người Tại Đảo Hải Nam

và An Dương, Trung Hoa, So Sánh Với Các Độ Sai Trệch Tiêu Chuẩn Trung Bình

Trên Thế Giới Đã Được Tổng Quát Hóa

 

 

***

 

Tác giả cũng đã áp dụng các sự phân tích phân biệt của các hàm số biện biệt trên các số đo các sọ người từ các vùng quan trọng trên thế giới để đối chiêu với sọ người tại vùng An Dương (đời nhà Thương) và đảo Hải Nam, Trung Hoa, cũng như so sánh với các chi số của các người đang sống từ nhiều nơi tại Á Châu, dựa vào công trình nghiên cứu của tác giả Bowles (1977), nhằm tính các khoảng cách tổng quát hóa và áp dụng các kỹ thuật quy tụ, hầu xác định tính khả tín và ổn định của cuộc thí nghiệm.

 

Tác giả Howells đã tóm tắt như sau:

 

[bắt đầu trích]”Theo các kết quả, được đơn giản hóa ở đây, các dân sống ở vùng Đông Á Châu thuộc vào một loạt các khu vực theo trục bắc nam tổng quát sau đây:

 

  1. Siberia (Tây Bá Lợi Á) và miền đất rừng phía đông (thí dụ, người Ainu; Ostyak, Yakut, Tungus,và v.v…; Koryak, Chukchi, Eskimo)

 

  1. Biển Caspian Sea đến Mãn Châu (thí dụ, người Kalmuks, Uyghurs, Kazakhs, Mongols, Buriats)

 

  1. Bắc Trung Hoa, Hàn Quốc, Nhật Bản.  Được gọi là “Các Dân Vùng Ở Giữa, Trung Gian: Intermediate Populations”)

 

  1.  Miền đông, tây, và nam Trung Hoa (giáp ranh với các dân thuộc vùng 3, nằm giữa các lưu vực của các con sông Hoàng Hà và Dương Tử

 

  1. Vân Nam, Quý Châu, Việt nam (kẻ cả 3 phân chủng khác nhau trong các thổ dân Đài Loan) [in đậm để làm nổi bật bởi người dịch]

 

  1. Đông Dương (trừ Việt Nam), Thái Lan, Mã Lai.

 

… Và tác giả Bowles nhìn nhận người Bắc Trung Hoa như “dân trung gian, ở giữa”: da họ trắng hơn các người phương nam, với mắt sáng hơn; về các số đo, ông nhận thấy số đo tương đương gần nhất là với người Uyghurs và Tây Tạng.  Người Hàn quốc, ông nhận thấy, là trung gian giữa người Bắc Trung Hoa và dân Tungus.  Mặt khác, người Nam Trung Hoa gần cận với các láng giềng không thuộc chủng Trung Hoa của họ (người Mèo và Thái-Shan) hơn là với người phương bắc.” [hết trích]

 

 

Điểm quan tâm chính yếu của chúng ta là theo các kết quả nghiên cứu trên, chủng tộc Trung Hoa được phân biệt thành hai nhánh, Bắc Trung Hoa và Nam Trung Hoa, và khác biệt với chủng tộc Việt cùng các người bản xứ ở Vân Nam và Quý Châu.  Trong khôi dân thuộc tộc Việt ở miền số 5 này, phải cộng thêm các sắc dân bản địa thuộc phần lớn tỉnh Tứ Xuyên, các tỉnh Hồ Nam, Quảng Tây và Quảng Đông mà chính người Trung Hoa ngày nay vẫn còn xem là Việt nhân, khi gọi là Việt Tây và Việt Đông, như nhiều cuộc khảo sát đã nêu ra nhiều bằng chứng khả tín.  Tuy nhiên,  cần phải có các cuộc nghiên cứu khoa học sâu xa hơn nữa để có được một kết luận quyết đoán.

 

  1. Sách giáo khoa về lịch sử văn minh thế giới tại Hoa Kỳ trong các thập niên gân đây cũng đã chấp nhận các khám phá mới này, và có ấn hành bản đồ cổ xưa của Trung Hoa với sắc dân Hán hay Hoa (Trung Hoa) ở phía bắc sông Hoàng Hà, còn từ phía nam sông Dương Tử là lãnh địa của sắc dân Việt.  Xin tham khảo, thí dụ, quyển World Civilizations của Peter Sterns, Chapter 13, The Spread of Chinese Civilization: Japan, Korea, and Vietnam, các trang 286-309.

 

Bản đồ Nam Việt cổ thời dưới đây được trích từ quyển Shadow of the Dragon: Vietnam‘s Continuing Struggle with China and the Implications for U.S. Foreign Policy của Henry J. Kenny, Washington: Brassey‘s, 2002 là một thí dụ khác./-

 

 

Bản Đồ 1: Bản Đồ Nam Việt Cổ Xưa, 111 trước Công Nguyên,

trước khi bị chinh phục bởi Trung Hoa